Một ngày đẹp trời, tôi làm một ít mochi tươi và để chúng trên bàn cho món tráng miệng bữa tối.
Sau đó, tôi đi siêu thị lấy một số nguyên liệu nấu ăn để nấu bữa tối. Tuy nhiên, khi tôi trở về từ siêu thị, chúng đã biến mất. Tôi tự hỏi ai đã làm điều này trong số những đứa trẻ ở nhà. Thật thú vị, tôi đã mua một số cupcake từ cửa hàng. Vì vậy, tôi quyết định rằng người ăn tất cả mochi cũng phải ăn tất cả các loại bánh cupcake nhưng với sốt cà chua và salad trộn trên topping. He he… He he…
Bây giờ nếu tôi thiết lập một quy trình kiểm tra giả thuyết để giúp tôi kết luận nếu Collin, người ăn uống nhất trong số những đứa trẻ, là người ăn mochi, thì tôi sẽ thiết lập giả thuyết null là:
: Collin vô tội (tức là bé không ăn bánh)
Và đây là giả thuyết mà tôi muốn bác bỏ. Tôi muốn ủng hộ giả thuyết thay thế:
Collin ăn bánh mochi.
Bây giờ lưu ý rằng mặc dù tôi muốn hỗ trợ và bác bỏ , nếu không có đủ bằng chứng chống lại , tôi sẽ không bác bỏ . Bởi vì nếu cậu ấy vô tội thì tớ không muốn ép Collin ăn bánh cupcake với sốt cà chua. Sẽ rất khủng khiếp nếu để điều đó xảy ra.
Ngoài ra, tôi cũng cần đủ bằng chứng để thuyết phục mọi người. Một sai lầm như vậy, nếu xảy ra, được gọi là lỗi loại I. Cụ thể hơn, lỗi loại I là lỗi mà chúng ta phạm phải khi bác bỏ giả thuyết null (tức là kết án một người vô tội) trong khi giả thuyết null là đúng (tức là người đó không có tội).
Mặt khác, sai lầm loại II không bác bỏ giả thuyết null (nghĩa là chấp nhận người đó vô tội) trong khi giả thuyết thay thế là đúng (nghĩa là người đó có tội).
Sai lầm loại I thường nghiêm trọng hơn sai lầm loại II. Chúng ta có thể hình dung điều này giống như việc tống giam một người vô tội thì nghiêm trọng hơn việc kết luận kẻ phạm tội vô tội.
bài viết gốc: